Sáng ngày 17/8/2024 ( nhằm ngày 14/7/Giáp Thìn), Chư tôn đức hành giả an cư tại các trú xứ trên địa bàn TP ĐàLạt, huyện Lâm Hà đã vân tập về chùa Linh Sơn TP Đà Lạt, tác pháp tự tứ .
HT. Thích Thanh Tân – Trưởng ban Trị sự kiêm Trưởng ban Tăng sự Phật giáo tỉnh ban đạo từ sách tấn tăng ni trẻ ” người tu sĩ chúng ta là phải tinh tấn tu học suốt trọn đời chứ không phải gói gọn trong ba tháng an cư ngắn ngủi này. Đặc biệt nhất chúng ta cần phải hành trì giới luật. Bởi vì giới luật là nền tảng căn bản để đi đến sự giải thoát… Người tu sĩ mà mất đi “Giới Thân Huệ Mạng” thì coi như mất đi sinh mạng của đời sống phạm hạnh giải thoát, chẳng khác gì như một xác chết đã khô chẳng giúp ích được gì cho đạo, cho đời… Ngoài ra người tu sĩ chúng ta cần phải lấy trí tuệ làm sự nghiệp . Ngoài mạng sống tính bằng hơi thở, chúng ta còn có một mạng sống nữa gọi là “Tuệ Mạng”. Chúng ta phải giữ gìn mạng sống này bằng trí tuệ, bằng lòng từ bi, bằng tinh thần lục hoà cộng trụ, trên thuận dưới hoà “ ĐOÀN KẾT HOÀ HỢP – TRƯỞNG DƯỠNG ĐẠO TÂM – TRANG NGHIÊM GIÁO HỘI” để đền đáp tứ trọng ân, dâng lên cúng dường Mười phương chư Phật, Lịch Đại Tổ sư, Chư Tôn đức tiền bối hữu công…”
Lễ Tự tứ (Pavāraṇā) là một ngày lễ quan trọng trong Phật giáo, đánh dấu sự kết thúc của ba tháng An cư. Pavāraṇā cũng có nghĩa là sự soi sáng, thức tỉnh khỏi phạm tội để làm gương cho nhau và cho kẻ hậu lai noi theo.
Nếu chư tăng Bố-tát gọi là trưởng tịnh, An cư là thúc liễm thân tâm thì Tự tứ là sự thỉnh cầu, sự thỉnh tội. Sự miên mật kỹ càng trong các nghi thức Phật giáo cho thấy tính logic, hỗ tương, phụ trợ nhau để hoàn thiện nếp sống phạm hạnh.
Bố-tát là đọc lại giới bổn mà mình đã thọ xem thử nửa tháng vừa qua mình có phạm tội gì không. Còn Tự tứ là lễ kết thúc sau ba tháng An cư, đến ngày chư Tăng mãn hạ, thực hiện một nghi lễ đối thú xưng tội với nhau.
Đầu tiên các vị Trưởng lão, Hòa thượng được đại chúng cung cử gọi là Tự tứ nhơn. Thông thường, một đại chúng lớn thì có ba vị làm Tự tứ nhơn. Quí ngài sẽ đối thú nhau xưng tội cầu thỉnh vị kia chỉ tội để sám hối cho được thanh tịnh. Sau đó ba vị Tự tứ nhơn này sẽ lần lượt đi đến mọi người trong đại chúng để chư Tăng thú tội, nếu có thì sám hối. Và lần lượt ba vị một thú tội cho đến khi nào hết thì thôi.
Theo tinh thần của Phật giáo, lễ Tự tứ hay thỉnh cầu vị khác chỉ lỗi của mình là một cách kiểm điểm lại bản thân. Từ những hành động do thân, đến những lời nói phát ra từ miệng, thậm chí là những suy nghĩ từ ý, nếu thấy những lời chỉ dạy đó là đúng sự thật, phải thành khẩn sám hối để được thanh tịnh. Nhờ vậy, mọi thành viên trong Tăng đoàn đều trở nên hoàn thiện, xứng đáng là bậc phước điền của nhân thiên.
Lễ Tự tứ, là hình thức thú lỗi lẫn nhau, vì trong thời gian an cư chắc chắn ít nhiều có những lỗi lầm do thấy, do nghe, do nghi nên thú lỗi với chư Tăng trước khi từ giã lên đường hành đạo. Nghi lễ bắt đầu với việc chư Tăng nhập hạ chung mặc y phục chỉnh tề, lễ bái Tam bảo, ngồi với nhau theo thứ tự hạ lạp, lớn hạ đọc trước nhỏ hạ đọc sau: “Kính bạch quý ngài, trong ba tháng An cư, tôi xin làm lễ Tự tứ với chư Tăng, nếu quý ngài có thấy, nghe, hoặc nghi những điều gì đối với tôi, xin quý ngài hãy từ bi chỉ bảo, để tôi hành theo cho được sự lợi ích” (bạch lần thứ nhì, lần thứ ba).
Văn bản tiếng Hán (phiên âm) như sau: “Đại đức nhất tâm niệm. Kim nhật chúng Tăng Tự tứ, ngã Tỷ-khưu… diệc Tự tứ. Nhược hữu kiến – văn – nghi tội, nguyện Đại đức ai mẫn ngữ ngã, nhược hữu kiến tội, đương như pháp sám hối”. Nghĩa: Đại đức nhất tâm niệm. Hôm nay chúng Tăng Tự tứ. Tôi Tỷ-khưu… cũng Tự tứ. Nếu có tội được thấy, được nghe và được nghi, nguyện Đại đức thương tưởng chỉ giáo cho tôi. Nếu tôi thấy có tội, sẽ như pháp sám hối (nói ba lần). Người nhận Tự tứ đáp: Thiện. Người Tự tứ đáp: Nhĩ.
Nghi thức tuy đơn giản nhưng rất thâm thúy và đầy đạo vị của những người xuất gia sống đời phạm hạnh. Sau lễ Tự tứ, chư Tăng lại bắt đầu lên đường làm nhiệm vụ của sứ giả Như Lai, hoằng truyền Phật pháp cứu độ chúng sinh.Truyền thống An cư và Tự tứ trong Phật giáo diễn ra hàng năm. Nơi nào có trú xứ chư Tăng thì nơi đó có pháp An cư và Tự tứ. Đây có thể nói là một nét đẹp truyền thống được người xuất gia đệ tử Phật giữ gìn qua bao thế hệ. Không vì bất cứ lý do gì mà hủy bỏ nghi lễ quan trọng này.
Ngoài sự thú tội, sám hối làm cho hành giả được thanh tịnh, nghi thức Tự tứ còn làm tăng trưởng lòng tin trong sạch cho hàng nam nữ cư sĩ Phật tử. Hiếm có một tôn giáo hay tổ chức nào có nghi lễ ý nghĩa và tuyệt đẹp như vậy.
Hình ảnh quý Tăng (Ni) đối thú nhau để xưng tội cầu sám hối nếu thấy, nghe, nghi thì như pháp sám hối toát lên sự trang nghiêm, linh thiêng, mầu nhiệm. Nghi lễ này cũng đồng thời đánh dấu một chặng đường tu học của hành giả An cư trong ba tháng miên mật hành trì giới, định, tuệ để tấn tu đạo nghiệp.
Sau lễ Tự tứ mọi người đều tăng trưởng hạ lạp, tức thêm một tuổi đạo. Đây là niềm vui lớn nhất của người xuất gia học đạo. Thông qua mỗi mùa An cư, Tự tứ các hành giả tự thân cảm nhận được năng lực tu học của mình. Phước đức tăng trưởng, đạo nghiệp viên dung đó là ý nghĩa thiêng liêng và cao quý nhất của nghi thức Tự tứ.
Pháp chế Tự tứ, nếu được đại chúng thực hành chí thành, đúng mức thì đó thật là nguồn năng lực lớn lao để củng cố tinh thần hòa hợp thanh tịnh của Tăng-già; trưởng dưỡng tâm Bồ-đề ngày càng lớn mạnh, bền chắc; giúp cho sự nghiệp nhiếp hóa chúng sinh thành tựu viên mãn. Chư vị thiện nam tín nữ cũng nương nhờ uy đức rộng lớn như biển của Đại Tăng mà tâm linh thăng tiến; nhờ tu học Phật pháp mà trí tuệ phát triển; nhờ thành tâm tu hạnh bố thí cúng dường mà phước đức sâu dày, duyên lành đối với Phật pháp sẽ kết chặt vững bền mãi mãi về sau
Linh Toàn _ Hạnh Định