Diện châm là phương pháp châm cứu vào các huyệt trên mặt để phòng hay chữa bệnh. Cách đây hàng ngàn năm người Trung Hoa phát hiện ra hệ thống kinh lạc trên cơ thể.
Kinh lạc và huyệt là gì?
Kinh lạc là hệ thống đường chằng chịt trên cơ thể nối từ trong các tạng ra ngoài đầu các chi (kinh âm) và từ đầu các chi vào trong cơ thể (các phủ kinh dương). Các kinh đều qua vùng đầu mặt hoặc có liên hệ với vùng đầu mặt. Lạc là các đường ngang nối các kinh có liên quan giữa tạng và phủ đó. Tác dụng của hệ kinh lạc là để lưu thông khí huyết, kinh lạc cũng là đường dẫn thuốc, tà khí vào trong hay khi ta đuổi tà khí ra ngoài. Kinh lạc có tác dụng điều khiển và điều hòa hoạt động của các tạng phủ. Trên đường kinh có các điểm ra vào của kinh khí gọi là huyệt. Khi công năng các tạng phủ rối loạn cũng có thể biểu hiện ra các huyệt tương ứng, ngược lại châm cứu vào các huyệt đó có tác dụng điều chỉnh lập lại hoạt động bình thường của các tạng phủ.
Trên đầu, trên mặt, trên mũi, mắt cũng có các huyệt đại diện cho các cơ quan khi ta tác động vào đó gọi là đầu châm, diện châm, tỵ châm…
Trong sách Linh khu tà khí tạng phủ bệnh hình viết: 12 kinh mạch, 365 lạc, khí huyết của nó đều từ mặt đi xuống khoang mũi. Tông khí của nó đi từ trên mũi xuống khíu… Bởi vậy sự biến hóa bệnh lý của các chi khớp, tạng phủ đều phản ảnh ra ở một khu vực nhất định trên mặt. Mũi ở giữa mặt, xưa gọi là Minh Đường, trong Linh khu – ngũ sắc có ghi: “Ngũ sắc độc quyết ở Minh Đường”, “Mũi ở giữa mặt là đường vận hành khí huyết của toàn thân”.
– Họng: Nằm ở 1/3 phía dưới từ giữa lông mày đến chân tóc.
– Phế: Nằm ở điểm giữa đường nối đầu trong 2 cung lông mày.
– Tâm: Nằm ở chỗ dưới cùng xương sống mũi.
– Can: Nằm ở phía dưới điểm cao nhất xương sống mũi.
– Tỳ: Nằm trên chỗ cao nhất của sống mũi.
– Tử cung – bàng quang: Nằm trên 1/3 trên rãnh nhân trung.
– Đởm: Nằm ở vùng phía dưới cạnh ngoài sống mũi.
– Vị: Nằm ở vùng liền cánh mũi.
– Tiểu trường, đại trường, vai, cánh tay: Nằm ở vùng gò má.
– Tay: Nằm phía dưới đằng sau xương quyền (gò má).
– Thận: Nằm ở điểm gặp nhau khi nối 2 đường – một đường từ thái dương xuống – một đường kẻ từ chân cánh mũi ra.
– Tiếng nói: Trùng với huyệt thính cung – nằm phía trước nhĩ bình.
– Đùi: Nằm 1/3 trên đường giữa dái tai và góc cổ dưới.
– Căn cứ vào điểm phản ứng trên mặt (đỏ, tái, đau, nhức…).
– Cũng có thể biện chứng luận trị theo mối quan hệ tạng phủ trong ngũ hành tương sinh và tương khắc.
Tóm lại: Từ thời xa xưa con người đã khám phá ra các huyệt nằm trên mặt, các huyệt này đại diện cho một vùng hay một chức năng nhất định của cơ thể. Khi cơ quan bị bệnh có thể phản ảnh ra ngoài bằng sự thay đổi màu sắc hay tính nhạy cảm tại vùng đại diện của cơ quan đó. Cũng căn cứ vào đó, thầy thuốc có thể tác động châm cứu để điều chỉnh chức năng các cơ quan giống như trong châm cứu thể châm.
Tác giả bài viết: PGS.TS. Dương Trọng Hiếu